Báo cáo Bệnh tụ huyết trùng trâu bò

Bệnh tụ huyết trùng là một bệnh truyền nhiễm do loại cầu trực khuẩn Pasteurella multocida và Pasteurella heamolitica gây ra hiện tượng tụ huyết, xuất huyết ở một số vùng trong cơ thể, chủ yếu là phổi, tim và có thể cả ruột. Vi khuẩn xâm nhập vào máu gây nên bại huyết toàn thân. Bệnh mang tính chất địa phương cục bộ.

Trên thế giới bệnh đã có từ lâu : ở châu Âu, châu Á, châu Phi. Ở Việt Nam với khí hậu nóng ẩm bệnh tụ huyết trùng ở các loại gia súc đều xẩy ra hầu như quanh năm, tập trung vào mùa mưa, tại mọi địa phương Bắc, Trung, Nam và ở tất cả các vùng từ vùng núi, trung du cho đến đồng bằng. Tuy vậy, bệnh tụ huyết trùng có đặc điểm địa phương ít lây lan.

doc 26 trang Thái Toàn 04/04/2025 580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Bệnh tụ huyết trùng trâu bò", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docbao_cao_benh_tu_huyet_trung_trau_bo.doc

Nội dung text: Báo cáo Bệnh tụ huyết trùng trâu bò

  1. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU Kính thưa cô và các bạn! Trong chuyên ngành chăn nuôi – thú y, chúng ta đã được học nhiều môn chuyên ngành như: Cơ thể động vật, dược lý, dinh dưỡng, bệnh học đại cương Trong đó, bệnh truyền nhiễm nói riêng là môn học chuyên nghiên cứu những bệnh có tính chất lây lan ở gia súc. Việt Nam chúng ta, thời tiết diễn biến phức tạp, mưa, nóng, lạnh rất thất thường nên đàn trâu, bò, nguy cơ xảy ra bệnh đường hô hấp rất cao, với nhiều loại bệnh nguy hiểm, trong đó bệnh tụ huyết trùng ở trâu bò là phổ biến, dễ lây lan, song mang tính chất địa phương là chính. Chính vì thế, dưới sự hướng dẫn của cô Lữ Ngọc Thảo – giảng viên bộ môn Bệnh truyền nhiễm, nhóm chúng tôi đã chọn chủ đề: “ Bệnh tụ huyết trùng trâu bò”, nhằm mục đích cung cấp các kiến thức cơ bản về chần đoán, điều trị và biện pháp phòng trị bệnh này, để việc chăn nuôi của bà con nông dân đạt được sự thuận lợi nhất. Trong quá trình biên soạn tài liệu có phần gấp rút, nguồn tài liệu tham khảo cũng hạn chế, do đó khó tránh khỏi những sai sót, rất mong cô và các bạn thông cảm. Nhóm chúng tôi rất trân trọng những ý kiến đóng góp và xây dựng để khắc phục những lỗi trong tài liệu và cũng như làm cho tập tài liệu này thêm phần hoàn thiện hơn. Cuối cùng nhóm xin chúc cả lớp đạt nhiều thành công trong môn học – Bệnh truyền nhiễm nói riêng và trong học kỳ cuối nói chung đều đạt nhiều thành tựu. Nhóm cũng xin kính chúc cô dồi dào sức khỏe, mẹ tròn con vuông, và hạnh phúc! Chúc buổi báo cáo của lớp ta ngày hôm nay thành công tốt đẹp! 1
  2. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ CHƯƠNG 2: NỘI DUNG Bệnh tụ huyết trùng là một bệnh truyền nhiễm do loại cầu trực khuẩn Pasteurella multocida và Pasteurella heamolitica gây ra hiện tượng tụ huyết, xuất huyết ở một số vùng trong cơ thể, chủ yếu là phổi, tim và có thể cả ruột. Vi khuẩn xâm nhập vào máu gây nên bại huyết toàn thân. Bệnh mang tính chất địa phương cục bộ. Trên thế giới bệnh đã có từ lâu : ở châu Âu, châu Á, châu Phi. Ở Việt Nam với khí hậu nóng ẩm bệnh tụ huyết trùng ở các loại gia súc đều xẩy ra hầu như quanh năm, tập trung vào mùa mưa, tại mọi địa phương Bắc, Trung, Nam và ở tất cả các vùng từ vùng núi, trung du cho đến đồng bằng. Tuy vậy, bệnh tụ huyết trùng có đặc điểm địa phương ít lây lan. 1. LỊCH SỬ VÀ ĐỊA DƯ BỆNH LÝ 1.1 Trên thế giới Bệnh tụ huyết trùng được Bollinger phát hiện lần đầu tiên trên bò năm 1878 ở Munich (Đức). Những năm tiếp theo bệnh được phát hiện ở khắp mọi nơi trên thế giới, trên nhiều loài gia súc, gia cầm. Năm 1885, Kitt đã phân lập được vi khuẩn. Khi nghiên cứu vi khuẩn tụ huyết trùng gây bệnh ở các loài gia súc, các nhà khoa học thấy sự giống nhau về tính chất gây bệnh, tương đồng kháng nguyên, nhưng khác nhau về tính gây bệnh cho các loài vật. Năm 1887, Trevisan đã đề nghị đặt tên cho vi khuẩn là Pasteurella để ghi nhớ công lao của Louis Pasteur, người có nhiều đóng góp nghiên cứu phát hiện ra loại vi khuẩn này (De Alwis, 1992) [50]. Vi khuẩn pasteurella gây bệnh cho nhiều loài gia súc nên tên của chúng được gắn với tên của loài vật mà chúng gây bệnh: Pasteurella suiseptica gây bệnh ở lợn Pasteurella boviseptica gây bệnh ở bò Pasteurella oviseptica gây bệnh ở dê, cừu Pasteurella aviseptica gây bệnh ở gà 2
  3. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ Đến năm 1939, Rosenbush và Merchant [79] đã đề nghị đặt tên cho vi khuẩn này là Pasteurella multocida, để chỉ khả năng gây bệnh cho nhiều loài vật của chúng, tên này đã được công nhận chính thức trên thế giới và sử dụng cho đến ngày nay. Lignieres (1900)[62] cho rằng: bệnh tụ huyết trùng có ít nhất ở 6 loài vật nuôi khác nhau. Hai thuật ngữ chỉ bệnh là Haemorrhagic septicaemia và Pasteurellosis được xem là đồng nghĩa. Tuy nhiên, gần đây theo qui ước của tổ chức FAO (FAO/WHO/CIF, 1970), trong các tài liệu quốc tế về súc sản, hai thuật ngữ này được dùng phân biệt, Haemorrhagic septicaemia dùng chỉ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ệnh do P. multocida thuộc serotype I Roberts gây ra, còn Pasteurellosis dùng chỉ bệnh do vi khuẩn Pasteurella gây ra. Ở Châu Á, bệnh tụ huyết trùng trâu, bò do P. multocida gây ra thường ở hai thể chủ yếu: Nhiễm trùng máu - xuất huyết (Haemorrhagic septicaemia - HS) và viêm phổi ở bò (Bovine pneumonic pasteurellosis). Ngày nay, sau hơn một trăm năm kể từ khi phát hiện lần đầu, P. multocida vẫn là nguyên nhân gây bệnh tụ huyết trùng cho nhiều loài gia súc gia cầm. Tuy có tính thích nghi gây bệnh trên các loài vật khác nhau, nhưng P. multocida đều có những đặc tính cơ bản giống nhau. 1.2 Ở Việt Nam Bệnh tụ huyết trùng ở Việt Nam được phát hiện vào những năm cuối thế kỷ 19: Cudamie thông báo về bệnh ở trâu thuộc tỉnh Bà Rịa và Long Thành năm 1868, sau đó Gemain (1869) phát hiện bệnh ở Gò Công, Yersin phát hiện bệnh ở ở các tỉnh miền Trung vào các năm 1889-1895. Năm (1901) Shein bằng phương pháp phân lập và tiêm truyền qua động vật thí nghiệm đã xác nhận ổ dịch ở trâu, bò xảy ra ở Tây Ninh là do vi khuẩn P. multocida (Phan Đình Đỗ và Trịnh Văn Thịnh, 1958) [4]). Theo Đoàn Thị Băng Tâm (1987)[31], tại Việt Nam bệnh thường xảy ra ở Nam bộ và đặc biệt ở miền tây Nam bộ, vào những năm 1910, 1919, 1920, 1933, 1935 dịch xảy ra rất lớn và mạnh. Bệnh gây thiệt hại và lây lan nhiều hơn ở những vùng đất trũng, thấp, khí hậu ẩm ướt. Bùi Quý Huy (1998) [11] cũng cho biết: Trước đây bệnh tụ huyết trùng xảy ra mạnh ở các tỉnh phía Nam và xảy ra lẻ tẻ ở các tỉnh phía Bắc. Trong những năm 70 có 80% số ổ dịch tụ huyết trùng và 84% số thiệt hại gia súc do bệnh tụ huyết trùng thuộc 3
  4. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ về các tỉnh ở phía Nam. Đến những năm 90 phân bố địa lý của bệnh nghiêng về các tỉnh phía Bắc, số địa phương có dịch tụ huyết trùng cũng tăng lên nhiều, hàng năm có 20 - 25 tỉnh thông báo có bệnh lưu hành. Ở nước ta khí hậu nóng ẩm, mỗi miền Bắc - Trung - Nam có điều kiện khí hậu và hệ sinh thái khác nhau. Các tác giả (Nguyễn Vĩnh Phước Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên [25], Nguyễn Ngã (1996)[21], Nguyễn Thiên Thu (1996)[34]) đã nhận định bệnh tụ huyết trùng trâu, bò xảy ra thường trùng với những cơn mưa ở từng vùng và kéo dài đến hết mùa mưa. 2.TRUYỀN NHIỄM HỌC 2.1 Mầm bệnh Bệnh tụ huyết trùng ở trâu bò do vi khuẩn Pasteurella multocida và P. hemolytica gây ra, thể hiện đặc trưng là tụ và xuất huyết ở các vùng đặc biệt trên cơ thể. Vi khuẩn vào máu gây nhiễm trùng máu, thể nặng gọi là bại xuất huyết trâu bò. Hình 1: Vi khuẩn P. multocida Vi khuẩn có sức đề kháng không cao cho nên vi khuẩn không tồn tại lâu ngoài cơ thể trâu bò; trong đất ẩm và thiếu ánh sáng, đầm lầy, ao bẩn có nhiều chất hữu cơ, trong chuồng trại thường tồn tại 1-3 tháng. Vi khuẩn tụ huyết trùng dễ bị diệt bằng 4
  5. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ nước nóng 58 0C trong 20 phút, ánh sáng mặt trời trong 12 giờ, nước vôi 10%, formol 1%, axit fenic 5% đều diệt được trong thời gian 1-3 phút. Các chất sát trùng thông thường cũng dễ tiêu diệt được vi khuẩn. Nguồn bệnh chính là các trâu bò mang trùng. Vi khuẩn ký sinh ở niêm mạc mũi, hầu và tuyến hạnh nhân. Trên đàn gia súc đã từng xảy ra bệnh, có đến hơn 40% trâu bò khoẻ mạnh vẫn mang trùng. Hình 2: Vi khuẩn P. multocida và các tế bào Về đặc tính sinh học của vi khuẩn gây bệnh tụ huyết trùng. P. multocida là vi khuẩn hiếu khí và yếm khí tùy tiện, ưa kiềm nhẹ, pH=7,2-7,4, có thể nuôi cấy ở nhiệt độ từ 13 độ C đến 38 độC, thích hợp nhất là 37 độ C. Vi khuẩn gram âm, cầu trực khuẩn, không di động, không hình thành nha bào, không có giáp mô. Đặc tính kháng nguyên không đồng nhất: có 2 nhóm kháng nguyên chính P. multocida, P. hemolytica. Vi khuẩn P. multocida có thể nuôi cấy ở nhiều loại môi trường như: Môi trường nước thịt, môi trường thạch thường. Theo (Jablonski và cs, 1996) để vi khuẩn P. multocida phát triển tốt trên môi trường nhân tạo cần thêm một số chất như: cystein, 5
  6. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ glutamic axit, leucine, methionine, muối vô cơ, nicotinamide, pantothenate, thiamine và đường. Trong đó leucin tác dụng kích thích tăng trưởng. Trên các môi trường nuôi cấy thông thường vi khuẩn phát triển kém, vi khuẩn phát triển tốt hơn trên môi trường nuôi cấy có bổ sung 5-10% huyết thanh hoặc máu động vật. Hình 3: Vi khuẩn P. Multocida được nuôi cấy trong môi trường thạch máu. Môi trường thạch - huyết thanh - huyết cầu tố : là môi trường dùng để phân lập, giám định, xác định độc lực của vi khuẩn: 100ml thạch + 1ml huyết cầu tố 1/10 (cừu, dê) + 4ml huyết thanh (bò, ngựa, dê). VK phát triển hình thành những khuẩn lạc đặc biệt : có hiện tượng tán sắc (iridescent). Khi xem khuẩn lạc bằng KHV 2 thị kính với độ phóng đại thấp (x20) và góc chiếu phản quang của ánh sáng đèn điện 45°. Tùy theo độc lực của VK màu sắc của khuẩn lạc khác nhau. VK có độc lực cao, quan sát thấy KL 2/3 diện tích về phía đèn có màu xanh lơ hay xanh lá mạ; 1/3 diện tích KL màu vàng kim loại hay da cam￿KL Fg (greenish fluorescent). 6
  7. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ VK có độc lực vừa, quan sát thấy KL 2/3 diện tích về phía đèn có màu vàng kim loại hay da cam; 1/3 diện tích KL màu xanh lơ hay xanh lá mạ ￿KL Fo (orange fluorVK có độc lực rất yếu, KL của chúng không có hiện tượng tán sắc, không màu gọi là Nf (not fluorescent). Hiện tượng tán sắc của KL xem rõ khi nuôi cấy sau 24 giờ, nếu để lâu sau 72 giờ sẽ mất đi. Với PA, VK có độc lực mạnh ￿KL dạng Foescent). Đặc tính sinh hóa cơ bản của vi khuẩn tụ huyết trùng như sau: - Dương tính trong các phản ứng Indole, khử Nitrat, Catalase, Oxidase. - Phân giải lên men các loại đường Glucose, Galactose, Saccarose, Mannose và Levulose. - Không lên men đường Lactose, Maltose, Ducitol và Rafinose. Prederickson (1973) khi nghiên cứu tính chất sinh hóa của vi khuẩn đã chia P. multocida thành 6 type (biotype) dựa trên các phản ứng phân giải các loại đường sau: - Type 1: Phân giải Arabinose, Ducitol và Xylose - Type 2: Không phân giải Arabinose, Ducitol và Xylose - Type 1, 6: Phân giải Xylose - Type 2, 3, 4, 5: Không phân giải Xylose - Type 6: Không phân giải Manitol, Sorbitol. 2.2 Loài vật mắc bệnh Trong tự nhiên hầu hết các loài gia súc, gia cầm, loài có vú và loài chim đều mẫn cảm với bệnh. Theo Lignieres (1900) [62] ít nhất có 6 dạng bệnh tụ huyết trùng khác nhau: Ở gà, trâu, bò, lợn, cừu, dê, ngựa và chó, cả 6 dạng bệnh này đều thấy ở thỏ. Bệnh thấy ở trâu, bò, lợn, thỏ, chó, mèo, hươu, ngựa, chồn, khỉ, dê và cừu (Carter, 1959[44]). Bệnh còn thấy ở bò rừng, nai, sơn dương, lợn rừng, thỏ rừng, voi, lạc đà và báo tuyết ở Hymalaya (De Alwis,1982[48]). Nhiều tác giả đã khẳng định: Nơi nào có 7
  8. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ bệnh tụ huyết trùng trâu, bò thì ở đó người ta cũng phát hiện bệnh này ở động vật hoang dã. De Alwis (1982) [48] cho rằng loài vật cảm nhiễm mạnh nhất đối với bệnh tụ huyết trùng là trâu, bò trong đó trâu mẫn cảm hơn bò. Tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết của các loài vật với bệnh tụ huyết trùng trâu, bò phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như mức độ cảm nhiễm của vùng, mức độ bùng nổ của các vụ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ịch trước đó, mức độ miễn dịch toàn đàn, đặc biệt phụ thuộc vào lứa tuổi mắc bệnh. Ở Việt Nam, trâu dễ bị nhiễm và mắc bệnh nặng hơn bò. Trâu, bò rừng cũng mắc bệnh (Đoàn Thị Băng Tâm, 1987) [31]. Trâu thường chết khi gặp thể quá cấp hoặc cấp tính. 2.3 Cơ chế lây lan Đường lây bệnh : Bệnh lây chủ yếu do thức ăn bị nhiễm mầm bệnh hoặc qua đường hô hấp, da bị sây sát (nhất là ở nơi mổ thịt gia súc bệnh, bán thịt,da,móng ). Vai trò của ngoại ký sinh trùng cắn hoặc hút máu lây lan bệnh vẫn chưa được rõ mặc dù Macadam (1962) đã thí nghiệm trên thỏ chứng minh ve có thể truyền bệnh . Các Stress do ngoại cảnh là yếu tố quan trọng cho bệnh phát ra. Bệnh thường xảy ra khi trâu bò bị lạnh, ẩm ướt, nhốt trong chuồng trị không thích hợp, đói hoặc kiệt sức. Khi sức khỏe gia súc yếu sẽ giảm sức đề kháng, mất thế cân bằng sinh học thì vi khuẩn có trong cơ thể gia súc trở nên cường độc gây bệnh hoặc bài thải ra môi trường gây bệnh cho trâu bò, gia súc khác. Bệnh phân bố khắp nơi trên thế giới Châu Âu, Châu Á, Châu Phi thường phát sinh ở các vùng nóng ẩm và xảy ra rải rác quanh năm. Tuy nhiên có tính chất theo mùa và thường rộ lên vào lúc giao mùa mưa, nắng nóng thất thường, hoặc chuyển vùng. Ở nước ta, bệnh tụ huyết trùng xảy ra ở khắp các vùng, thường vào đầu mùa mưa, vùng sau lũ lụt (thường từ tháng 4 đến tháng 10). 2.4 Cơ chế sinh bệnh 8
  9. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ Cơ thể trong điều kiện bình thường có sức đề kháng cao đối với căn nguyên gây bệnh tụ huyết trùng, điều đó giải thích rằng trong đàn có nhiều cá thể mang trùng mà dịch không xảy ra. Khi sức đề kháng của cơ thể gia súc giảm xuống, P.multocida gây viêm ở các lớp niêm mạc và vào hạch lâm ba (hạch hầu, hạch sau hầu, hạch bả vai); VK nhân lên làm hạch bị viêm, thủy thũng các vùng xung quanh hạch làm cho hệ thống hàng rào bị phá hủy. Hạch hầu : chèn ép khí quản gây khó thở. Hạch sau hầu : đẩy lưỡi ra ngoài. Hạch bả vai : gây què. Sau đó Vi khuẩn tụ huyết trùng xâm nhập vào máu gây sốt, và tiết nội độc tố. Chính các nội độc tố này phá huỷ cấu tạo của thành mạch máu làm cho máu ngấm vào các mô xung quanh tạo nên hiện tượng tụ huyết, da đỏ. Vi khuẩn sau đó đến khắp các hệ cơ quan và gây ra các bệnh lý đặc trưng. Các chủng có độc tố mạnh làm con vật chết nhanh, các chủng có độc tố yếu hơn gây bệnh kéo dài với các tổn thương viêm và hoại tử ở phổi, gan, tim, thận và khớp. 2.5 Tuổi mắc bệnh Bệnh xảy ra ở hầu hết các lứa tuổi, những con đang bú mẹ ít mắc hơn những con trưởng thành. Tuổi hay bị nhất là từ 6 tháng đến 2, 3 năm. Trâu, bò 1-3 tuổi dễ mắc hơn trâu bò già và khi mắc thì tỷ lệ chết cao hơn. Trâu bò càng béo, khỏe, trẻ càng dễ mắc bệnh và tỷ lệ chết cao. Bê, nghé dưới 6 tháng tuổi ít mắc bệnh. Theo De Alwis (1984) mức độ cảm nhiễm của động vật non mạnh hơn động vật già. Khi nghiên cứu dịch tại Srilanka tác giả cho biết tỷ lệ mắc bệnh đối với trâu bò dưới 2 năm tuổi là 30- 32%, trong khi đó trâu, bò trên 2 năm tuổi chỉ mắc bệnh 3-5% ở bò và 8-9% ở trâu. 3. TRIỆU CHỨNG Có 3 thể bệnh tụ huyết trùng: 3.1. Thể quá cấp tính Gia súc thường chết nhanh, kèm theo sốt cao và triệu chứng thần kinh như vật 9
  10. BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU BÒ trở nên hung dữ, điên và hút đầu vào tường, hoặc giãi dụa, run rẩy nặng thì lăn ra chết, lúc đang ăn thì bỏ chạy như điên và ngã xuống tự lịm đi và chết. Thể này thường xảy ra ở gia súc non từ 6-18 tháng tuổi. 3.2 Thể cấp tính: + Thời gian nung bệnh ngắn từ 1-3 ngày. + Thú không nhai lại, bức rứt khó chịu, sốt cao 40-42 độ C. Niêm mạc mắt mũi ửng đỏ, con vật chảy nước mắt, nước mũi: lúc đầu trong, loãng; về sau đục và đặc dần, chảy nước dãi. + Trường hợp vi khuẩn xâm nhập vào cơ quan hô hấp: Phổi tụ máu, viêm màng phổi, viêm ngoại tâm mạc, viêm phế quản, con vật ho khan nho nhỏ, nước mũi đặc, khó thở. + Trường hợp vi khuẩn xâm nhập vào đường tiêu hóa: Viêm ruột cấp tính, con vật đi táo, thời gian sốt kéo dài 2 ngày, khi thân nhiệt hạ, con vật đi ỉa lỏng, phân nát, nhiều nước có thể có máu. Bụng chướng hơi. + Trường hợp vi khuẩn xâm nhập vào hạch lâm ba: Có triệu chứng viêm hạch lâm ba, hạch hầu, hạch dưới hàm, hạch sưng to, chỗ sưng nóng đau, ấn tay vào chổ sung có vết lõm và giữ nguyên dấu tay, không trở lại bình thường, thuỷ thủng (thường thấy ở hạch hầu) làm con vật khó nuốt, lưỡi thè ra. Hạch trước vai, hạch khoeo ở chân làm con vật què. Thở khó trầm trọng, ngạt thở - chết. Niêm mạc có xuất huyết li ti. + Thú sưng hầu, khó thở, dang hai chân để thở, các hạch sưng to, tiểu ra máu, có thể chết do ngạt thở. Triệu chứng khó thở ngày càng trầm trọng. Lúc đầu ho khan, từng tiếng một; về sau ho nhỏ hơn, từng hồi. + Do viêm sưng đám hạch vùng hầu họng đồng thời do viêm phổi thùy dẫn đến thể tích phổi tiếp nhận O2 giảm, đường ra vào của không khí bị chèn ép nên lưỡi con vật bị đẩy ra ngoài, con vật phải há miệng để thở tưởng như trâu 2 lưỡi. 10